Võ thuật Việt Nam là tên gọi khái quát hệ thống võ thuật, các võ phái, bài thảo, võ sư khai sinh và phát triển trên đất nước Việt Nam, hoặc do người Việt làm chưởng môn,
gây dựng sáng tạo tại ngoại quốc từ xưa đến nay, có những đặc trưng riêng biệt
trong sự đối sánh với các võ phái nước ngoài khác. Võ thuật Việt Nam có nội hàm
khái niệm rộng hơn thuật ngữ võ cổ truyền Việt Nam (thường biết đến với tên gọi võ Ta phân biệt với võ Tàu) vốn thường
dùng để chỉ những võ phái đã phát triển trong khoảng từ giữa thế kỷ 20 trở về trước trên lãnh thổ Việt Nam, theo
đó, võ thuật Việt Nam có thể bao gồm cả những môn phái mới sinh thành
trong thời điểm hiện tại, và bao quát cả những võ phái đã phát triển trong suốt
trường kỳ lịch sử Việt Nam.
Bên cạnh những nét tương đồng với nền võ thuật rộng
lớn của Trung Hoa do ảnh hưởng từ giao lưu văn hóa trong lịch sử,
các võ phái Việt Nam đặc biệt là các hệ phái võ thuật cổ truyền vẫn thể hiện những
đặc điểm khác biệt rõ rệt với các nền võ học khác trên thế giới nói chung và
Trung Hoa nói riêng.
Lời thiệu của các bài
quyền, bài binh khí thường làm bằng thơ, phú có vần điệu,
đặc biệt có nhiều bài thơ Nôm, khác hẳn với các võ phái Trung
Hoa hoặc không có lời thiệu, hoặc lời thiệu chỉ là sự liệt kê thứ tự chiêu thức
một cách rời rạc.
Bộ pháp vận hành theo đồ hình bát quái,
với nguyên lý "lưỡng túc bát quái vi căn" (hai chân lấy bát quái làm
nền tảng), khi đứng thì vững như đá tảng, khi di chuyển thì nhẹ nhàng linh hoạt
như lá bay.
Cước pháp nổi tiếng với rất
nhiều đòn độc cước, trong đó có những đòn đá chớp nhoáng tấn công ở tầm trung đẳng
trở xuống, ít có những đòn đá ở tầm thượng đẳng hoặc những đòn đá bay thiên
về biểu diễn.
Thủ pháp áp dụng theo ngũ hành pháp
với nguyên lý "song thủ ngũ hành vi bản" (hai tay lấy ngũ hành làm nền
tảng).
Kỹ thuật của các đòn thế được
chọn lọc, phân thế riêng phù hợp với cách đánh của từng dạng đối tượng, địa
hình (có thể đánh trên lưng ngựa, voi, cọc gỗ, thành giếng) nhất là lối đánh cận
chiến một người chống lại nhiều người. Rất ít có các kỹ thuật thiên về màu mè
hoa dạng mà mang tính thực dụng cao độ. Tận dụng triệt để lối đánh "cộng lực",
dựa vào sức lực đối phương để triệt hạt đối phương theo nguyên lý "tá lực
đả lực", lấy nghịch để chế thuận.
Binh khí của các võ phái Việt
Nam truyền thống nổi tiếng được chế tác từ các dụng cụ thô sơ trong nghề nông,
như Thiết lĩnh, một dạng tương tự côn nhị
khúc; Bút chì (vũ khí) chế
từ chiếc xẻng có
buộc thêm dây dài vào cán để phóng; Tề mi côn làm bằng tre, tầm vông còn
gọi là roi chiến. Đặc biệt tề mi côn với những kỹ thuật độc đáo như thế
"đâm so đũa", một tuyệt kỹ bí truyền chưa có cách hóa giải.
Các võ phái tại Bình Định còn thường xuyên phổ dụng môn binh khí là dải lụa được
buộc vật nặng ở đầu, một vũ khí mềm hơn nhuyễn tiên của Trung Hoa, nhưng
không kém phần uy lực thuộc thập bát ban võ nghệ Việt Nam .
Các hệ phái võ thuật cổ truyền ở Việt Nam đa
dạng nhưng có thể xếp vào 5 nhóm chính: Nhóm Bắc Hà (miền Bắc), nhóm Bình Định
(miền Trung), nhóm Nam Bộ (miền Nam), các môn phái có nguồn gốc từ Trung Quốc đến
Việt Nam (như các hệ phái danh gia Thiếu Lâm)
và ngoài ra, còn có thể kể đến các võ phái Việt Nam
phát triển ở nước ngoài.
1. Nhóm Bắc Hà
Các phái võ Bắc Hà ban đầu đều phát triển
ở miền Bắc Việt Nam
dù có võ phái sau đó đã ảnh hưởng lan rộng đến các khu vực khác trong cả nước.
Các phái này bao gồm:
- Vật Liễu Đôi: Võ vật
có truyền thống lâu đời và rất phổ biến tại miền Bắc Việt Nam . Nhiều làng tổ chức thi đấu vật
vào các lễ hội mùa xuân. Lễ hội Vật Liễu Đôi tổ chức thường niên ở làng Liễu
Đôi, xã Liêm Túc, huyện Thanh Liêm, Hà Nam .
Lễ hội vật Liễu Đôi |
- Nhất Nam:
có lịch sử lâu đời nhất trong các võ phái cổ truyền Việt Nam , có khởi nguồn từ Thanh Hóa, Nghệ An.
Ông tổ của môn vật truyền thống Việt Nam , Nguyễn Tam Chinh, sinh ra
tại vùng này. Đây cũng là vùng đất địa linh nhân kiệt sản sinh nhiều danh tướng
Việt Nam lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm như Bà Triệu (225-248),
Dương Đình Nghệ (?-938), Lê Lợi v.v. Trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông
xâm lược, nhà Trần chủ yếu dựa vào mười vạn binh sĩ từ các tỉnh
Thanh Hóa, Nghệ An.
Võ thuật Nhất Nam |
- Nam Hồng Sơn: do võ sư Nguyễn Văn Tộ sáng lập
dựa trên cơ sở chương trình rèn luyện võ cổ truyền dân tộc từ thời Nguyễn và
vay mượn thêm một số kỹ thuật của võ Trung Hoa.
- Việt Võ đạo (Vovinam):
Vovinam Việt Võ Đạo là môn võ được võ sư Nguyễn Lộc sáng lập vào năm 1938. Đây là hệ
thống pha trộn võ học gia đình, võ Việt Nam và các trường phái võ các nước
khác như Judo, Karate...
Võ phái dựa trên kỹ thuật phản công ngang, đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức
tạp.
Một thế võ của Vovinam |
Hà Nội và vùng phụ cận được xem là cái
nôi của võ cổ truyền. Trước đây nhiều võ sinh khu vực này đã vượt qua nhiều cuộc
khảo thí võ rất gian nan do triều đình phong kiến tổ chức tại Giảng Võ đường.
Sau năm 1880 khi mà thi võ bị triều đình bãi bỏ, nhiều võ gia vẫn tiếp tục bí
truyền các kỹ năng lại cho con cháu.
2. Nhóm Bình Định
Bình Định là vùng từng thuộc vương quốc Chămpa,
nơi có truyền thống võ thuật lâu đời mà những phù điêu của vương quốc Chăm còn
lưu giữ hình ảnh. Đây cũng là cái nôi võ thuật miền Trung gắn liền với triều đại Tây Sơn (1778-1802). Trong thế kỷ 18, một số võ
sư nổi tiếng từ miền Bắc Việt Nam
và Trung Quốc chuyển đến định cư tại vùng này và dạy võ cho người dân địa
phương. Trong số này có Trương Văn Hiến (vùng Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh),
Trần Kim Hùng (có tổ tiên sáng lập thôn Trường Đình, Tây Sơn), Diệp Kim Tòng (từ Phúc Kiến),
Đinh Văn Nhưng (người Ninh Bình).
Những võ sư này đã rèn luyện võ nghệ cho anh em nhà Tây Sơn và hầu hết các tướng
sĩ của cuộc khởi nghĩa.
Từ cuối thế kỷ 18 các võ sư đã gây dựng
tại Bình Định phái võ Tây Sơn (còn gọi là Võ trận Tây
Sơn) độc đáo, kết hợp của nhiều hình thức và kỹ thuật từ những võ phái Bình Định
khác nhau. Nguyên tắc của võ phái này là: "nhất mạnh, nhì nhanh, thứ ba giỏi",
nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của sức mạnh, sự khéo léo, và kỹ thuật có uy
lực thực dụng. Tuy nhiên, cùng với sự suy vi của dòng họ Tây Sơn, nhiều kỹ thuật
của phái võ trận này chỉ còn được truyền dạy trong các chi phái võ của các gia
tộc tại Bình Định.
Từ thời Tây Sơn đến nay, nhóm Bình Định
bao gồm nhiều võ phái xuất phát từ Bình Định và vùng phụ cận như: roi Thuận Truyền, quyền An Thái, quyền An Vinh và các
hình thức võ thuật do các gia tộc, các nhà sư truyền
dạy như Tây Sơn Nhạn,Bình Định Sa Long Cương, Võ trận Bình Định, Tân Sơn Bạch Long, Tây Sơn Thiếu Lâm, Bình Định gia, v.v. Nhiều bài danh quyền có xuất xứ từ đất
Bình Định như Ngọc trản quyền, Lão mai quyền, Thần đồng quyền, Yến phi quyền (còn được gọi là Én Bay thảo pháp) đã được
đưa vào chương trình khảo thí võ thuật thời Nguyễn và một số bài trở thành bài
quy định của Liên đoàn Võ thuật Cổ truyền Việt Nam.
Điều cần nói ở đây là, tên gọi "Võ
Bình Định" nguyên khởi xuất hiện vào thế kỷ thứ 15, do Nguyễn Trãi đặt và được truyền nối rồi ngộ nhận là môn võ
xuất phát từ vùng Bình Định vào thời Tây Sơn. Theo cách lý giải của tủ
sách Tìm hiểu Võ thuật, sau cuộc khởi nghĩa thành công, Lê Lợi đặc biệt lưu tâm đến việc trui rèn võ nghệ cho
quân đội nên cho mở các kỳ thi võ và mở trường dạy võ. Nhà vua ủy thác cho nhà
sư Sa Viên là người huấn luyện võ nghệ
cho nghĩa binh Lam Sơn từ năm 1415 mở võ đường. Nguyễn Trãi đã đặt tên cho võ đường của nhà sư Sa Viên là
Võ đường Bình Định để tưởng nhớ công lao của Bình Định Vương Lê Lợi. Từ đó tên
Võ Bình Định được truyền nối khắp nước.
Võ Bình Định |
3. Nhóm Nam Bộ
Các phái võ Nam Bộ xuất hiện cùng với
quá trình mở cõi, "Từ thuở mang gươm đi mở cõi, Trời Nam thương nhớ
đất Thăng Long" (thơ Huỳnh Văn Nghệ), và định cư của người Việt
trong thế kỷ 18 và thế kỷ 19. Sau khi dứng chân ở Nam Trung Bộ, các chúa Nguyễn tiếp tục mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam và
di dân từ Quảng Nam, Đà Nẵng, Quy Nhơn vào
khai khẩn đất hoang tại đồng bằng sông Cửu Long. Song song với điều đó, triều
Nguyễn cũng lưu đày nhiều tội phạm vào Nam . Vì vậy, nhiều người Việt ở miền
Nam xuất thân từ các vùng có truyền thống võ nghệ, lại giành giật sự sống trong
cuộc chiến sinh tử với vùng quê mới còn hoang dã, nên hầu hết trong số họ rất
thành thạo nghệ thuật chiến đấu.
Từ cuối thế kỷ 18, bị bại trận trước
quân khởi nghĩa Tây Sơn, tàn quân nhà Nguyễn bỏ chạy xuống phía Nam quy tụ về Đồng Nai tiếp
tục tuyển mộ các võ sư để rèn binh luyện khí. Sau khi nhà Nguyễn được thành lập
năm 1802, nhiều người vùng này đã vượt qua các kỳ thi võ của triều đình, theo
đuổi binh nghiệp và trở thành nhiều võ tướng. Một số hoàng thân quốc thích nhà
Tây Sơn, để trốn tránh sự truy nã trả thù của Gia Long, cũng lưu lạc tới miền Nam , mang theo
sở học của bản thân và âm thầm truyền dạy trong các gia tộc, hình thành nên nhiều
võ phái nổi tiếng.
Xuất thân đa dạng của người Việt trong
Nam đã tạo nên những hệ thống võ thuật Nam Bộ có nguồn gốc rất phong phú pha trộn
từ các nhóm Bình Định, Thanh Hóa, Nghệ An, đồng bằng sông Hồng và cả những võ
phái có xuất xứ từ Trung Quốc (như võ Thiếu Lâm), võ thuật của dân tộc Chăm,
võ Cao Miên.
Sự pha trộn nhiều môn loại với kỹ thuật được cải biến cho phù hợp với điều kiện
cụ thể ở miền Nam trong đó có nhu cầu tự vệ trước thú dữ và khai khẩn đất canh
tác mới, đã tạo nên phái Nam Bộ đặc biệt với những võ phái được gọi là "võ
miệt rừng" hay "võ miệt vườn" nổi danh như Tân Khánh Bà Trà, Thất Sơn quyền của
các nhà sư, Âm dương võ phái và
phái Kim Kê.
Nhiều võ sư ở miền Nam nổi danh được ví với
"tam nhật" (ba mặt trời) Hàn Bái, Bá Cát và Bảy Mùa; "tam nguyệt" (ba mặt
trăng) Trương Thanh Đăng, Quách Văn Kế và Vũ Bá Oai;
"tứ tú" (bốn vì sao) với Hồ Văn Lành, Trần Xil, Xuân Bình và Lý Huỳnh.
Nhiều võ sĩ miền Nam đã tham gia
thượng đài với rất nhiều lần toàn thắng trước các võ sư đến từ những quốc gia
lân bang như Cao Miên, Lào, Xiêm.
Trước năm 1975, ở
miền Nam cũng đã có Tổng cuộc Quyền
thuật Việt Nam của Tổng nha Thanh niên trực thuộc Bộ Văn hóa
Giáo dục và Thanh niên.
4. Các võ phái có
nguồn gốc Trung Hoa
Sự giao lưu, ảnh hưởng lâu đời từ Trung
Hoa trong suốt trường kỳ lịch sử đã tạo nên ở Việt Nam những hệ phái võ thuật do các
võ sư Trung Quốc hoặc võ sư Việt giảng dạy. Đó có thể là hệ thống được chân
truyền nguyên bản từ phương Bắc, và cũng có thể là các hệ phái đã hỗn dung với
kỹ thuật bản địa nhưng vẫn giữ nguyên tên gọi có gắn với võ thuật Trung Hoa.
Tuy nhiên, có một đặc điểm chung nhất cho các võ phái có nguồn gốc Trung Hoa hiện
đang được giảng dạy tại Việt Nam :
hầu hết là những hệ thống đã ít nhiều cải biên cho phù hợp với thể chất và văn
hóa của người Việt. Danh sách không đầy đủ các võ phái có nguồn gốc Trung Hoa
trên lãnh thổ Việt Nam gồm: Bắc Mã Sơn, Lâm Sơn Động, Phật gia quyền, Không Động, Vĩnh Xuân Quyền (Việt Nam), Thiếu Sơn Phật Gia, Thiếu Lâm Long Phi, Thiếu Lâm Bắc Truyền
Thiên Mục Sơn, Thiếu Lâm Nội Gia Quyền, Thiếu Lâm Bắc Phái
Mai Hãn, Thiếu Lâm Tự (võ), Thiếu Lâm Sơn Đông và
các võ phái như Võ Đang phái, Nga Mi phái…
5. Võ thuật Việt Nam
ở nước ngoài
Theo bước chân của người Việt đến khắp thế giới, rất nhiều
kỹ thuật võ Việt Nam đã đến với nước ngoài, đặc biệt là các nước phương Tây như Pháp và một số nước châu Âu, Mỹ, Canada. Có đến 22 môn
phái võ thuật có cội nguồn từ Võ thuật Việt Nam tại Pháp, và
có đến 30.000 võ sinh theo học.
Các võ sinh người nước ngoài thuộc các môn phái võ Việt Nam |